Nếu như trai xứ Huế bị hút hồn ngẩn ngơ bởi tà áo dài tung bay trong gió, dân miền Nam thích chòng ghẹo các cô vui tươi, rắn rỏi chất phác thật thà sau chiếc áo bà ba, thì người miền Bắc một thời lại chết mê chết mệt, không ngớt ca ngợi chiếc áo tứ thân, chiếc khăn mỏ quạ, dải yếm đào, dây lưng xanh, quần nái đen, tóc đuôi gà, nón quai thao,… xứ Kinh Bắc.
“Nào đâu cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen” – những câu thơ giản dị và mộc mạc về hình ảnh chiếc áo tứ thân mang đậm hồn người con gái truyền thống Việt Nam, khơi gợi nét thôn quê, dân dã của nhà thơ Nguyễn Bính đã trở nên rất quen thuộc với những người dân Việt Nam.
Các cô gái vùng quê Kinh Bắc trong những ngày hội tạo nên nét đẹp đậm đà, nét đẹp riêng vốn có ấy từ lâu cũng đã đi vào trong thơ của nhà thơ Hoàng Cầm:
“ Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh…”
Thứ trang phục riêng rất đặc trưng của dân ca quan họ Bắc Ninh làm nên cái tình của người Quan họ không chỉ được truyền tải trong câu hát mà nó còn hút hồn người đối diện ngay tức thì. Nếu trang phục không đúng chất, đúng kiểu câu hát quan họ có hay mấy cũng như món ăn thiếu gia vị.
Tìm Hồn Quê Trong Chiếc Áo Tứ Thân, Chiếc Khăn Mỏ Quạ
Cho đến nay, vẫn chưa ai biết rõ được nguồn gốc chính xác của chiếc áo tứ thân. Một số di sản khảo cổ tìm thấy hình ảnh của chiếc áo dài tứ thân với hai tà áo thướt tha bay trong gió được tìm thấy trên các hình khắc mặt trống đồng Ngọc Lũ từ cách đây vài nghìn năm.
Theo truyền thuyết kể lại, trong cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước, Hai Bà Trưng đã mặc một chiếc áo dài có 2 tà giáp vàng. Do tôn kính 2 Bà nên phụ nữ Việt tránh mặc áo dài 2 tà mà thay bằng áo tứ thân.
Một cách lý giải khác là do kỹ thuật dệt ngày xưa còn khá thô sơ nên chỉ dệt ra loại vải có khổ hẹp (khoảng 40cm) nên muốn may thành một chiếc áo phải ghép 4 mảnh lại với nhau.
“…Tìm trong bao vành nón, một dáng nón ba tầm
Tìm trong bao tà áo, một sắc áo tứ thân…”
Trích từ “Bâng khuâng trong chiều hội Lim”
Áo tứ thân không chỉ thể hiện bản sắc riêng của vùng quê Kinh Bắc- Bắc Ninh mà còn thể hiện nét đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, nét đẹp của những người con Rồng cháu Tiên.
Theo các liền chị (danh từ thay thế chị hai, chị ba, cô hai, cô ba) cho biết một bộ quần áo Quan họ không đơn thuần chỉ có áo tứ thân mà còn có cả yếm, dải thắt lưng, khăn vấn mỏ quạ, váy chùng, hài mũi cong, nón quai thao. Trang phục của các liền anh (anh hai, anh ba) là áo the khăn xếp.
Chất liệu vải chủ yếu tạo nên nét thanh lịch, tao nhã chính là bằng vải the hay lụa tơ tằm Hà Đông. Váy được may bằng vải ánh tía hoặc sa tanh đen, khăn mỏ quạ từ vải láng đen hoặc chéo go, thắt lưng làm từ lụa hoặc đũi…đòi hỏi người thợ may không chỉ cần có khiếu mà cần có duyên, phải có tính tỉ mỉ, sự kiên trì rất cao thì mới may ra một bộ cánh hoàn hảo vì phần lớn đường may của áo rất ít. Đa số các đường chỉ phải dùng tay để khâu, để vắt rất kỳ công thì tà áo mới bay, vạt áo mới mềm.
Khăn Mỏ Quạ
Đi cùng với áo tứ thân là khăn mỏ quạ. Khăn mỏ quạ có từ khi nào? Xuất xứ ra sao? Cũng chẳng ai rõ chỉ biết rằng dáng khăn vuông đen nền nã, dung dị ấy phụ nữ Việt xưa hầu như ai cũng có. Ra đồng, đi chợ, hội hè, cưới hỏi…các chị, các cô dù áo tứ thân. Yếm lụa thắm, hay bà ba giản dị cũng không quên chít khăn đen mỏ quạ.
Nào đâu khăn có rộng như nón, dài như “áo tơi” để cản mưa, chắn nắng, nào đâu khăn là trâm ngọc – hột xoàn để dung nhan thêm phần kiêu kỳ, đài các. Khăn “mỏ quạ” ngày qua ngày hiện hữu như một phần làm nên cái nết, cái đẹp cho phụ nữ Việt xưa.
Nón Quai Thao
Nón quai thao (có tên gọi khác là nón ba tầm), ngày nay chỉ thường các bà, các cô đội hoặc mang theo trong những dịp lễ, tết, hội hè, hoặc những lúc có công việc nhàn nhã, vui vẻ nhưng cần phải nghiêm chỉnh, lịch sự.
Tương truyền rằng nón xuất hiện ở Hải Dương vào đời Trần (thế kỷ XVIII) sáng tạo cho cung nữ gọi là nón thượng. Qua đời Lê, nón được thêm quai thao. Dân gian tin là có viên quan trong triều, ông Vũ Đức Úy, trong khi được cử làm phó sứ sang Trung Quốc, bỏ công học nghề thủ công, dệt thao rồi về nước truyền nghề: nghề dệt, nghề dùng sợi tơ làm dây đàn, quai thao cho nón.
Chiếc nón quai thao có kích thước khá lớn, đường kính mặt nón ước chừng 70-80 cm, che rợp cả khuôn mặt người đội, tạo nên một không gian rộng, thoáng và mát. Nón được lợp từ lá gồi hoặc lá cọ, thành nón cao độ từ 10-12 cm. Giữa nón gắn một vành tròn như nắp tráp vừa đầu đội cao khoảng 8 cm, gọi là cái “khua”. Khua cần phải cứng để chịu đựng được nón nặng làm từ những sợi tre nhỏ chuốt bóng khâu lại với nhau bằng chỉ tơ nhiều màu sắc rất kỳ công. Những sợi chỉ đan chéo nhau thành hình hoa lá, chim muông thật đẹp mắt.
Quai thao là bộ phận không thể thiếu của chiếc nón ba tầm, nó chẳng những làm cho nón cân bằng, vững chãi, mà còn làm cho người phụ nữ thêm duyên dáng, thướt tha…
Quai thao làm bằng tơ, nhưng là loại tơ đặc biệt bền lại có giá trị cao. Thông thường các cô gái trẻ thì thích dùng quai thao màu trắng ngà gốc tơ tằm, còn quai thao màu tím, màu đen thì được dùng cho phụ nữ đã lập gia đình. Quai thao gồm từ 2 đến 3 sợi bện lại với nhau (gọi là quai kép), thả võng đến thắt lưng. Khi đội đầu, người phụ nữ lấy tay giữ quai ở trước ngực, nón không bị đung đưa lại tiện điều chỉnh khi đội thẳng hay lúc cần nghiêng nghiêng che nắng… Hai đầu quai thao có chừng mươi mười hai túm tua nho nhỏ, dài chừng 20-25 cm rủ xuống trông mềm mại, vui mắt.
Ngày nay, trang phục được cải tiến hoàn thiện hơn cả về mặt thẩm mỹ, chất liệu, kiểu dáng trên cơ sở phát huy tối đa những giá trị truyền thống của bộ trang phục xưa. Sự cách điệu sáng khiến cho trang phục của liền chị Quan họ ngày càng toát lên vẻ gợi cảm của người phụ nữ qua sự kết hợp độc đáo giữa truyền thống và hiện đại.
Ý kiến bạn đọc (0)